Bài giảng Ngữ văn 11 (Kết nối tri thức) - Văn bản: Một thời đại trong thi ca
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ văn 11 (Kết nối tri thức) - Văn bản: Một thời đại trong thi ca", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
bai_giang_ngu_van_11_ket_noi_tri_thuc_van_ban_mot_thoi_dai_t.pptx
Nội dung tài liệu: Bài giảng Ngữ văn 11 (Kết nối tri thức) - Văn bản: Một thời đại trong thi ca
- Tiết/Ca : MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA (Trích “Thi nhân Việt Nam”) - Hoài Thanh) -
- I. KHỞI ĐỘNG
- HOÀN THIỆN BẢNG SAU TRONG VÒNG 5 PHÚT K W L Điều em Điều em Điều em mong muốn đã biết muốn biết biết thêm
- II. ÔN TẬP
- TRẮC NGHIỆM 1. “Một thời đại trong thi ca” thuộc kiểu văn bản nào sau đây: A. Tiểu luận B. Chính luận C. Xã luận D. Ngôn luận
- Nội dung sau về tác phẩm Một thời đại trong thơ ca của Hoài Thanh đúng hay sai? “Một thời đại trong thơ ca 2. là tiểu luận mở đầu cuốn thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới” A. Đúng B. Sai
- 3. Nội dung của đoạn trích “Một thời đại trong thi ca” bàn đến vấn đề gì? A. Các tác phẩm thuộc phong trào Thơ mới. B. Quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh, C. Chủ nghĩa hiện thực Việt Nam. D. Tinh thần Thơ mới.
- 4. Theo Hoài Thanh, tinh thần Thơ mới là gì? A. Cốt cách hiên ngang của người thi sĩ dần biến mất B. Chữ Tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó C. Chữ ta với cái nghĩa tuyệt đối của nó D. Sự mất dần cái Tôi cá nhân trong thi đàn Việt Nam
- Theo Hoài Thanh, quá trình phát triển từ thơ cũ 5. sang thơ mới là đi từ chữ “TA” đến chữ “TÔI” là đúng hay sai? A. Đúng B. Sai
- 6. Theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần Thơ mới trong tương quan với thơ cũ là gì? A. Trong Thơ mới có những trần ngôn sáo ngữ và trong thơ mới vẫn có ít nhiều dấu vết thơ cũ. B. Trong Thơ mới có những bài thơ chúc tụng. C. Cái tầm thường, lố lăng không chỉ riêng của thời nào và trong thơ mới vẫn có ít nhiều dấu vết thơ cũ. D. Bài thơ nào trong thơ mới cũng là kiệt tác.
- 7. Tác giả đã nêu ra cách nhận diện tinh thần Thơ mới trong tương quan với thơ cũ như thế nào? A. So sánh bài hay với bài tầm thường. B. So sánh bài hay với bài hay và nhìn vào đại thể. C. So sánh bài tầm thường với bài tầm thường. D. So sánh bài hiện đại với bài cổ điển.
- 8. Vì sao tác giả lại nói "cái tôi" vừa đáng thương và tội nghiệp? A. Vì "cái tôi" dám khẳng định cá nhân một cách cao nhất nên bị phê phán B. Các nhà thơ mới mang trong mình "cái tôi" cô đơn, bé nhỏ, buồn và bơ vơ, bế tắc C. Trong thơ mới, lần đầu tiên cái tôi của các thi sĩ được thể hiện nên không có nhiều giá trị và trở nên đáng thương D. Tất cả đều đúng
- 9. Theo Hoài Thanh, người đại diện đầy đủ nhất cho thời đại của chữ “tôi” là ai? A. Vũ Hoàng Chương. B. Xuân Diệu C. Hàn Mặc Tử D. Chế Lan Viên
- 10. Nghệ thuật đặc sắc trong bài viết của Hoài Thanh là gì? A. Lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực B. Lời văn giàu tính hình tượng, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, gần với phong cách chính luận. C. Lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo; văn phong tài hoa tinh tế, giàu cảm xúc D. Kết hợp nhiều cách diễn đạt khác nhau, đặt vấn đề và giải quyết vấn đề một cách thấu đáo
- TRẢ LỜI CÂU HỎI Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính trong văn bản. Đáp án - Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
- Câu 2: Khi nói đến tình yêu tiếng Việt của các nhà thơ mới, tác giả đã dùng những từ, những hình ảnh thấm đượm tình cảm nào ? Đáp án - Những từ ngữ, hình ảnh thấm đượm tình cảm: gửi cả, yêu vô cùng, chia sẻ vui buồn, dồn tình yêu, tấm lụa đã hứng vong hồn, gửi nỗi băn khoăn riêng.
- Câu 3: Cách diễn đạt “là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua” có nghĩa là gì ? Đáp án - Cách diễn đạt hình ảnh “là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua” biểu đạt ý nghĩa: tiếng Việt rất trong sáng, giàu đẹp, phong phú, là giá trị tinh thần cao quý của dân tộc; tiếng Việt chất chứa vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam qua bao thế hệ vì tiếng Việt đã được sáng tạo, giữ gìn, trau chuốt bởi con người Việt Nam qua bao thế kỉ.
- III. LUYỆN TẬP
- ĐỌC VĂN BẢN VÀ THỰC HIỆN YÊU CẦU LƯU TRỌNG LƯ VỚI BÀI THƠ TIẾNG THU Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác: Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy. Nhận định này dường như đã thành nỗi ám ảnh, và rồi suốt đời, Lưu Trọng Lư cứ loạng choạng, cứ bập bõm bước trong cái vòng kim cô mà Hoài Thanh đã tiên đoán và vạch ra ngay từ khi ông mới xuất hiện trên thi đàn. Còn về con người Lưu Trọng Lư, thiết tưởng cũng chẳng có ai hiểu ông hơn Hoài Thanh: Cả đời Lư cũng là một bài thơ, nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết. Quả đúng vậy, và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài thơ ra, nó không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây là bài hay nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca Việt Nam hiện đại:
- Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức? Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ Em không nghe rừng thu Lá thu kêu xào xạc Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so le, các ý trong bài thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu cứ theo cách hiểu máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra mà tìm tư tưởng, tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ Đầu Ngô mình Sở. Đã thế, tác giả còn tỏ ra vụng về, tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng thơ tí nào, nó như câu văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông: Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ
- Ấy vậy mà khi gộp tất cả lại, nằm trong một tổng thể, bài thơ hay đến lạ lùng, người ta không còn thấy dấu vết thô vụng đâu nữa. Đây là điều duy nhất xảy ra ở văn học Việt Nam và chỉ xảy ra có một lần. Cái hay của bài thơ này không nằm ở câu chữ. Nó hoàn toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu đó đằng sau những con chứ rất sáng tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. Người ta chỉ cảm thấy được, chứ không thể nói ra được một cách rạch ròi. Đây là bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng hồn, bằng cả điệu nhạc rất riêng của tâm hồn thi sĩ. Bởi thế, người đọc cũng phải dùng hồn để chiêm ngưỡng nó, chứ không thể ngắm nó bằng lý trí tỉnh táo. Đã không ít nhà phê bình nghiên cứu mang lý trí ra để làm con dao cùn mổ xẻ những con chữ rất ngơ ngác này. Có người còn viện đến cả thi pháp học để cố hiểu cho bằng được bài thơ, lấy thi pháp làm chìa khoá mở cánh cửa thực dụng, đi vào cõi mù mờ tâm linh này. Bằng cách vận dụng thi pháp, có người cho đây là bài thơ nói về nỗi cô đơn không có sự chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên bài thơ có 9 câu mà đã có đến ba câu điệp “Em không nghe”: Em không nghe mùa thu Em không nghe rạo rực Em không nghe rừng thu
- Em không nghe, còn anh thì nghe thấy hết. Nghe thấy hết mà không nói ra được. Đây là cuộc đối thoại mà kẻ đối thoại lại ẩn sau sự câm lặng. Hoặc giả em cũng đã nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu em. Đằng nào thì cũng vẫn cứ là thiếu niềm đồng cảm. Một bên thì thổn thức, rạo rực, kêu xào xạc, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nôt. Hiểu một cách sống sít như thế thì thật thô thiển. Nhà phê bình đã kéo những đám mây ngũ sắc đang bay bảng lảng trong không trung, rồi rải xuống đường làm rơm rạ lót chân, và như thế còn đâu cánh rừng thu, tâm hồn thu cho con nai vàng trú ngụ. Mấy câu điệp khúc ấy thực chất chỉ để tạo giai điệu rất đặc biệt cho bài thơ này. ở đây, nhạc điệu cũng là một phần nội dung chính làm nên hồn vía bài thơ. Còn ở góc độ khác, cũng nhìn bằng con mắt lý trí, có người còn cho rằng đây là bài thơ Lưu Trọng Lư thâu cóp của nước ngoài. Thực tế trong bếp núc sáng tác, có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người bình luận còn viện cớ rằng: Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng. Đấy là rừng châu âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm. Mùa thu Việt Nam đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: Rừng thu rừng biếc chen hồng? Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác?
- Ơ hay, Lưu Trọng Lư có nhìn thiên nhiên bằng con mắt thịt đâu! Lại phải mời Hoài Thanh về làm luật sư bào chữa cho ông thôi: Trong thơ Lư, nếu có cả chim kêu, hoa nở, ta cũng chớ tin. Hay ta hãy tin rằng tiếng ấy, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng. Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ 20, ngày ngày nện gót trên các con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng thấy mìn gò ngựa ở những chốn xa xăm nào. Tương truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà một người bạn. Rồi nhân cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi non. Lưu Trọng Lư bèn vịnh ngay bài thơ này. Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng Lư thức dậy và toả hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là tiếng ca phàm tục của người đời (Trích “Chân dung và đối thoại”, Trần Đăng Khoa Nguồn:
- TRẮC NGHIỆM 1. “Lưu Trọng Lư với bài thơ Tiếng thu” thuộc kiểu văn bản nào? A. Tự sự B. Chính luận C. Xã luận D. Nghị luận/Nghị luận văn học
- Nhận xét về Lưu Trọng Lư sau đây là của ai? “Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết 2. chọn chữ, không chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy”. A. Trần Đăng Khoa B. Hoài Thanh C. Đặng Thai Mai D. Một người bạn của Lưu Trọng Lư
- 3. Bài thơ “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư được Trần Đăng Khoa đánh giá là: A. Một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, khúc nhạc huyền bí của thần linh B. Tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ đầu Ngô mình Sở. C. Bài thơ như văn xuôi, tác giả còn tỏ ra vụng về, có tỳ vết của sự thô vụng D. Cả ba đáp án trên đều đúng
- 4. Cái hay của bài thơ này không nằm ở câu chữ mà ở chỗ nào? A. Đây là bài thơ nói về nỗi cô đơn không có sự chia sẻ. B. Đây là bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng hồn, bằng cả điệu nhạc rất riêng của tâm hồn thi sĩ. C. Nó hoàn toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu đó đằng sau những con chứ rất sáng tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. D. Đáp án B và C
- Theo tác giả, trong thơ Lưu Trọng Lư, nếu có cả 5. chim kêu, hoa nở, ta cũng chớ tin vì quê hương của ông ở đâu? A. Là “thế giới thực của với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng”. B. “Mộng! Đó mới là quê hương của Lư”. C. Ở Hà Nội và “ngày ngày nện gót trên các con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng” D. Ở khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng Lư
- 6. Theo tác giả, điệp khúc “Em không nghe” trong bài thơ “Tiếng thu” có tác dụng gì? A. Em không nghe còn anh thì nghe thấy hết, thể hiện giữa hai bên thiếu niềm đồng cảm. B. Em cũng đã nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu em C. Điệp khúc ấy thực chất chỉ để tạo giai điệu (nhạc điệu) rất đặc biệt cho bài thơ D. Đáp án A và B
- 7. Đặc sắc nghệ thuật của bài viết là: A. Ngôn ngữ hình ảnh giàu tính biểu cảm và giàu chất thơ B. Cấu trúc tương phản, nêu các ý kiến có tính phủ nhận giá trị bài thơ rồi khẳng định giá trị của nó một cách sâu sắc, thuyết phục. C. Lập luận chặt chẽ, lí lẽ xác đáng D. Cả ba đáp án trên
- TRẢ LỜI CÂU HỎI Câu 1: Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản. Đáp án - Các phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản. Nghị luận, biểu cảm, miêu tả
- Câu 2: Câu văn sau có sử dụng biện pháp tu từ nào? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ vừa tìm ra. Một bên thì thổn thức, rạo rực, kêu xào xạc, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nốt. Đáp án - Biện pháp tu từ: + Biện pháp tu từ liệt kê: Một bên thổn thức, rạo rực, kêu xào xạc. + Biện pháp điệp từ: không nghe + Đối lập giữa hai bên nghe và không nghe - Tác dụng : + Tạo nhịp điệu, chất thơ và mô phỏng nhạc điệu của bài thơ + Nhấn mạnh đây là cách hiểu thô thiển về bài thơ
- Câu 3: Anh/chị có tán thành đánh giá của nhà thơ Trần Đăng Khoa về bài thơ « Tiếng thu » của Lưu Trọng Lư không ? Vì sao ? Đáp án - Có thể đồng tình hoặc không đồng tình với Trần Đăng Khoa : + Đồng tình : Đây là bài thơ rất hay đúng như Trần Đăng Khoa đã đánh giá. Ngoài ra, có rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình đánh giá rất cao về bài thơ. Bài thơ còn từng được đưa và sách giáo khoa để giảng dạy và học tập. + Không đồng tình: tán thành quan điểm phủ nhận giá trị bài thơ của một số người như tác giả nêu trong bài viết hoặc dựa vào các tư liệu khác.
- IV. VẬN DỤNG
- Tôi có chờ đâu có đợi đâu Đem chi xuân đến gợi thêm sầu! ĐỀ BÀI - Với tôi tất cả như vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau Viết bài nghị luận văn Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng? học về bài thơ “Xuân” của Với của hoa tươi muôn cánh rã, Về đây đem chắn nẻo xuân sang!” Chế Lan Viên: Có một người nghèo không biết Tết Mang lì chiếc áo độ thu tàn! Có đứa trẻ thơ không biết khóc Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!”
- ĐÁP ÁN Tham khảo: Xuân - bài thơ được nhiều người nhớ của Chế Lan Viên Không có gì ngạc nhiên khi khẳng định Chế Lan Viên (1920-1989) là một hiện tượng lạ thường trên thi đàn Việt Nam. Với Điêu tàn (1937), tập thơ đầu tay của ông khi nhà thơ còn là một chàng thiếu niên 17 tuổi, ông đã sớm tỏa sáng một tài năng thơ “kỳ dị”, như nhận xét của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam. Điêu tàn của Chế Lan Viên đã làm nên một khí chất, sắc thơ và tình điệu thẩm mỹ độc đáo, để lại một dấu ấn đậm nét khó phai trong lịch sử thi ca Việt Nam hiện đại. Hành trình thơ của Chế Lan Viên trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt, với những tìm kiếm, trăn trở khôn nguôi, tạo cho ông một diện mạo thơ sắc sảo, tinh tế, thâm thúy, đậm chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của thế giới nội tâm sâu thẳm. Một trong những bài thơ hay, được nhiều người biết nhất, đọc thuộc nhiều nhất của Chế Lan Viên phải kể đến bài thơ “Xuân” trong “Điêu tàn”. Đó là một bài thơ viết về mùa xuân với những ý tưởng lạ kỳ. Một mùa xuân bị chối bỏ, thờ ơ, lãnh đạm. Một mùa xuân mà cả đất trời và lòng người trĩu nặng, ưu tư, buồn bã.
- Tôi có chờ đâu có đợi đâu Đem chi xuân đến gợi thêm sầu! - Với tôi tất cả như vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau Cứ cho là nhà thơ của chúng ta vì một nỗi niềm nào đấy mà lạnh nhạt với mùa xuân, hờ hững với sắc hương tươi thắm của những đóa hoa xuân, những chồi non lộc biếc xanh tươi; để chỉ đến với những sắc lá vàng khô, những cánh rã tàn phai. Nhưng cái ý tưởng thiết tha mong muốn góp nhặt những sắc lá vàng, những cánh hoa tàn úa của mùa thu trước để “chắn nẻo xuân sang”, bất chấp quy luật muôn thuở của đất trời thì thật không thể hiểu nổi chàng thiếu niên thi sĩ của chúng ta: Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng? Với của hoa tươi muôn cánh rã, Về đây đem chắn nẻo xuân sang!”
- Cái khát vọng trong vô vọng của Chế Lan Viên “chắn nẻo xuân sang” tạo nên sức ám ảnh sâu sắc làm ta cứ mãi nghĩ, nhớ, tự hỏi về sự phá cách của thơ ca. Quả thật là không dễ dàng gì. Chỉ có thể là một tài thơ lớn của Chế Lan Viên. Cái mới, lạ, độc đáo của bài thơ Xuân là viết về mùa xuân để chối bỏ mùa xuân. Vậy, rốt cuộc nhà thơ muốn gửi đến chúng ta thông điệp gì? Có một người nghèo không biết Tết Mang lì chiếc áo độ thu tàn! Có đứa trẻ thơ không biết khóc Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!” Lại là một sự phi lý, đúng hơn, tưởng chừng phi lý. Nhưng lần này nhà thơ đã hé mở cánh cửa tâm hồn: “Có một người nghèo không biết Tết/ Mang lì chiếc áo độ thu tàn!”. Câu thơ đã không còn siêu thực, đã tiếp cận con người trong cuộc nhân sinh. Nghèo. Không biết Tết. Đói cơm, thiếu áo Là câu chuyện quá đỗi thường tình của nhân dân ta, đất nước ta thời thuộc Pháp những năm đầu thế kỷ 20, “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” (C.L.V). Và chàng thiếu niên thi sĩ của chúng ta là một chứng nhân.
- Và chàng thiếu niên thi sĩ của chúng ta là một chứng nhân. Hai câu thơ nối tiếp: “Có đứa trẻ thơ không biết khóc/ Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!” đã vượt ra ngoài lằn ranh của siêu thực - hiện thực, hữu lý - phi lý, vươn đến tầm cao của sự đột phá nghệ thuật, gieo một cảm xúc thẩm mỹ gai người khó tả như đọc “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh dưới ánh đèn dầu leo lét giữa đêm mưa. Sao lại có thể như thế được? Bi kịch kiếp người thì thiên hình vạn trạng, nhưng một đứa trẻ thơ mà không biết khóc, mà “vô tình bỗng nổi tiếng cười ran” một cách phi nhân tính thì thật là khủng khiếp! Chế Lan Viên đã đẩy bi kịch của kiếp nhân sinh đến tột cùng, chạm đến ngưỡng của phi lý, nghịch lý chỉ với hình ảnh của một đứa trẻ không biết khóc toát lên nỗi đau nhân thế có sức ám ảnh nghệ thuật sâu đậm.
- Đến đây, trong một chừng mực nào đó, chúng ta đã có thể hiểu vì sao chàng thiếu niên thi sĩ Chế Lan Viên lại viết về mùa xuân với một tâm trạng buồn thảm khác thường, ở giữa mùa xuân nhưng lại ước ao trở về “mùa thu trước”, dù chỉ để “nhặt lấy cho tôi những lá vàng”, và “với của hoa tươi, muôn cánh rã”. Nhà thơ đã rất thật với lòng mình. Cũng như hầu hết những nhà thơ đương thời, Chế Lan Viên có một tâm hồn đa sầu đa cảm, buồn nhân thế mênh mang, nhìn đâu cũng thấy bất công, nghịch cảnh, đói nghèo cùng cực trong thời đất nước bị ngoại bang đô hộ. Với một tâm trạng buồn chán, bế tắc, không lối thoát, Chế Lan Viên thích hợp với mùa thu với những gam màu u ám, tàn phai như một sự “đồng bệnh tương lân”. Và như thế, nhà thơ thốt lên: Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ! Một cánh chim thu lạc cuối ngàn” Thế đấy! Bài thơ “Xuân” bất hủ của Chế Lan Viên đã được kết lại bằng những thán từ, rười rượi nỗi niềm mong nhớ mùa thu mà không nhắc gì đến mùa xuân đang hiện hữu. (Bài viết của sinh viên Trường ĐH Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh)

