Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ đọc-hiểu văn bản văn học Lớp 11 tại Trường THPT Thuận Thành số 3

pdf 49 trang Phương Quỳnh 28/01/2025 1340
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ đọc-hiểu văn bản văn học Lớp 11 tại Trường THPT Thuận Thành số 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_tao_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_sinh_tron.pdf

Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ đọc-hiểu văn bản văn học Lớp 11 tại Trường THPT Thuận Thành số 3

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẮC NINH TRƯỜNG THPT THUẬN THÀNH SỐ 3 BÁO CÁO BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY MÔN : NGỮ VĂN TÊN BIỆN PHÁP: TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRONG GIỜ ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC LỚP 11 TẠI TRƯỜNG THPT THUẬN THÀNH SỐ 3 Họ và tên: Nguyễn Thị Hợi Môn giảng dạy: Ngữ văn Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Thuận Thành số 3 Bắc Ninh, tháng 1 năm 2021
  2. MỤC LỤC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng công tác dạy học và tính cấp thiết a. Thực trạng công tác giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường b. Tính cấp thiết 2. Nội dung biện pháp a. Giới thuyết chung b. Một số giải pháp tạo hứng thú học tập trong giờ Đọc hiểu văn bản văn học * Giải pháp 1: Tạo tâm thế để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh * Giải pháp 2: Đa dạng hoá hoạt động theo hướng dạy học tích cực * Giải pháp 3: Linh hoạt trong kiểm tra, đánh giá 3. Thực nghiệm sư phạm a. Mô tả cách thức thực hiện b. Kết quả đạt được c. Điều chỉnh, bổ sung sau thực nghiệm 4. Kết luận 5. Kiến nghị a. Đối với tổ/nhóm chuyên môn b. Đối với Lãnh đạo nhà trường c. Đối với Sở GDĐT PHẦN III. TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN IV. MINH CHỨNG VỀ HIỆU QUẢ CỦA BIỆN PHÁP PHẦN V. CAM KẾT
  3. CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Viết đầy đủ GD&ĐT Giáo dục và đào tạo GV Giáo viên HS Học sinh THPT Trung học phổ thông SĐTD Sơ đồ tư duy SGK Sách giáo khoa VBVH Văn bản văn học
  4. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Hứng thú là một thuộc tính tâm lý- tính cách của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M. Gorki từng nói: “ Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực trong nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, khơi dạy mạch nguồn của sự sáng tạo. Môn Ngữ văn ở THPT nói chung, ở chương trình Ngữ văn lớp 11 nói riêng là sự tích hợp của 3 phân môn: Văn, Tiếng Việt và Làm văn. Mỗi phân môn có vai trò, vị trí khác nhau trong việc trang bị tri thức khoa học, rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh. Trong đó phân môn Văn, nhất là các giờ Đọc- hiểu văn bản văn học có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm và năng lực thẩm mĩ cho học sinh. Ở một mức độ nhất định, các giờ Đọc- hiểu văn bản văn học khơi gợi được nhiều hứng thú cho giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy cũng như hoạt động học, sự yêu thích môn Ngữ văn phần lớn cũng bắt nguồn từ các giờ Đọc- hiểu này. Tuy vậy, theo kết quả trao đổi với các thầy, cô giáo trong trường tôi công tác và trong huyện thấy rằng trong những năm gần đây, không khí và hiệu quả dạy học Ngữ văn bao gồm cả các giờ Đọc hiểu văn bản văn học thực sự không như mong muốn. Tình trạng học sinh không còn hứng thú học văn đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nhà trường. Nhiều giáo viên dạy Văn phàn nàn, khổ tâm vì học sinh không chịu học Văn. Hiện tượng ấy do nhiều nguyên nhân: nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, nguyên nhân từ phía giáo viên, nguyên nhân từ phía học sinh Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy các em chưa có thói quen chủ động, khám phá bài học, chưa có nhu cầu tự thân bộc lộ sự hiểu biết, cảm nhận văn học. Trước những vấn đề văn học cần bộc lộ quan điểm, các em thường dựa vào
  5. cách hiểu, cách cảm của người khác. Nhiều giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, còn thuyết trình nhiều, chưa có biện pháp tạo hứng thú cho học sinh, chưa thường xuyên chú ý phát huy tính tích cự, chủ động, sáng tạo trong nhận thức và cảm thụ văn học của học sinh. Xuất phát từ thực tế trên, tôi có nhiều trăn trở: Làm sao để giờ học không cứng nhắc? Làm thế nào để các em yêu thích, hứng thú khi tiếp nhận và cảm thụ văn học. Làm thế nào để các em tìm thấy được bao điều tốt đẹp, bao ý nghĩa của cuộc đời qua những giờ Văn ? Và tôi đã có những tìm tòi và thử nghiệm ở một số lớp, qua các năm học. Tôi xin đề xuất biện pháp “Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ Đọc- hiểu văn bản văn học lớp 11 tại trường THPT Thuận Thành số 3” 2. Mục đích nghiên cứu: Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn dạy Đọc- hiểu văn bản văn học lớp 11, người viết đề xuất biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn 3. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tổ chức dạy – học Văn bản văn học lớp 11 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu: Khảo sát và áp dụng thử nghiệm với học sinh lớp 11- Trường THPT Thuận Thành số 3 Học kì I- năm học 2020-2021 PHẦN II. NỘI DUNG 1. Thực trạng công tác dạy học và tính cấp thiết a. Thực trạng công tác giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường Là một giáo viên trực tiếp làm công tác giảng dạy môn Ngữ văn tại trường THPT Thuận Thành số 3 tôi nhận thấy những thuận lợi , khó khăn sau: * Thuận lợi Theo tinh thần của nghị quyết số 29-NQ/TW của Trung ương Đảng khóa XI “ Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” , việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới thi cử là việc làm cần thiết và hợp với xu thế toàn cầu. Đây là những định hướng cơ bản, thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.
  6. Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao việc đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Song song với đổi mới phương pháp, nhà trường cũng được Sở GD quan tâm tới việc đầu tư cơ sở vật chất để phục vụ tốt nhất cho quá trình giảng dạy. Hiện nay 100% các lớp được trang bị máy chiếu, loa, micro, phòng máy vi tính được trang bị mới, hiện đại. Học sinh theo học nghề tin nên rất thuận tiện cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy và học. Đây chính là điều kiện thuận lợi giúp giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp một cách tích cực, hiệu quả. Giáo viên dạy học môn Ngữ văn phần lớn tâm huyết với nghề, đã có kinh nghiệm giảng dạy. Hầu hết giáo viên đều nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng bộ môn. Giáo viên cũng thường xuyên dự giờ, trao đổi, rút kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao chất lượng giảng dạy. Nhiều học sinh năng động, nhanh nhẹn, sáng tạo, tích cực tiếp cận các tư liệu trên Internet cũng như áp dụng kiến thức liên môn vào bài học. * Những khó khăn và nguyên nhân - Khó khăn Mặc dù điểm tuyển sinh đầu vào của trường THPT Thuận Thành số 3 những năm gần đây đã được nâng lên, cao hơn một số trường cùng hạng trong tỉnh, tuy nhiên phần lớn học sinh có lực học trung bình và khá, số lượng học sinh giỏi không nhiều. Đây là một trở ngại đối với việc áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực và các kĩ thuật dạy học hiện đại trong việc tổ chức các hoạt động dạy học. Một số giáo viên khi dạy Văn vẫn còn nặng truyền thụ kiến thức mang tính áp đặt, ngại đổi mới, chưa thường xuyên sử dụng CNTT, áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giảng dạy. Học sinh ít hứng thú với môn Văn, chỉ coi đây là môn học bắt buộc để thi tốt nghiệp, rất ít học sinh có nguyện vọng thi đại học . Coi môn Văn là một gánh nặng, nhiều học sinh học với tâm thế bị động, đối phó; học cho xong để có điểm
  7. chứ không phải học thực chất để lấy kiến thức. Thực tế giảng dạy tại cơ sở công tác cho thấy học sinh rất lười soạn bài về nhà trong khi đây là yêu cầu không thể thiếu do đặc trưng bộ môn. Trong giờ học, các em luôn có những biểu hiện tiêu cực như: ít phát biểu, khả năng tiếp thu bài yếu kém, khả năng diễn đạt trong bài làm lủng củng, thiếu mạch lạc và hành văn không có tính văn chương. Đặc biệt khả năng trình bày bài luyện nói trước tập thể của các em rất yếu kém: không tự tin và tác phong không nghiêm túc . - Nguyên nhân Về chương trình môn Ngữ văn học lớp 11 có một số điều bất cập. Có nhiều văn bản lượng kiến thức cần khai thác rất lớn (như “Hạnh phúc một tang gia”( trích “Số đỏ”) - Vũ Trọng Phụng, “Chí Phèo” Nam Cao) nhưng thời lượng phân phối lại rất ít, giáo viên chỉ lo dạy không kịp bài thì làm sao tạo được hứng thú cho học sinh. Về phía giáo viên: trong những năm gần đây, ngành luôn đề cao việc đổi mới phương pháp dạy học, nhưng thật sự việc đổi mới ở các giáo viên dạy Ngữ văn còn gặp khá nhiều khó khăn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy cũng chưa đạt được kết quả mong muốn. Một nguyên nhân nữa xuất phát từ trình độ chuyên môn của giáo viên, nhất là đa số những giáo viên mới ra trường, mỗi khi lên lớp chưa thật làm chủ kiến thức khó tạo sự hứng thú cho học sinh. Về phía học sinh: trong tâm lý phụ huynh và học sinh, các môn học như Văn, Sử, Địa đơn thuần chỉ là “ học thuộc”, chỉ là môn học điều kiện. Hơn nữa, đa phần học sinh hiện nay đã quen với lối học thụ động. Hơn nữa, mặt trái của nền kinh tế thị trường làm cho học sinh trở nên thực dụng hơn khi chọn ngành nghề cho tương lai, trong lúc môn Văn là môn rất khó làm kinh tế và có thu nhập cao như các ngành nghề khối Tự nhiên. Về đặc thù bộ môn: môn Ngữ văn là một môn học khó, mang tính đặc thù Trong mỗi giờ học Văn bản văn học, học sinh phải phát huy trí tưởng tượng sáng tạo, năng lực cảm thụ thì mới có thể hiểu được những tầng nghĩa sâu xa của tác phẩm – Yêu cầu này, không phải học sinh nào cũng có đủ khả năng.
  8. b. Tính cấp thiết Trong thực tế, hiệu quả dạy học môn Ngữ văn qua kiểm tra, đánh giá còn thấp, tình trạng học sinh không có hứng thú học Văn ngày càng trở thành hiện tượng phổ biến trong nhà trường, ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với người thầy phải đổi mới phương pháp dạy học Văn khiến môn văn hấp dẫn, tạo sự hứng thú và phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. 2. Nội dung biện pháp. a. Giới thuyết chung. * Hứng thú học tập. - Khái niệm hứng thú . Theo Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2000, “ hứng thú là sự ham thích”. Nói một cách rõ hơn thì hứng thú chính là sự “nổi lên, dấy lên, bộc lộ ra” cảm xúc thích thú, phấn khích, say mê trước một đối tượng cụ thể nào đó. Hứng thú là một trạng thái tinh thần khiến cho con người có thể giải toả được sự căng thẳng, mệt mỏi, giúp tập trung vào công việc và trở thành động lực để làm việc. - Khái niệm hứng thú học tập. Học hay còn gọi là học tập, học hành, học hỏi quá trình tiếp thu cái mới hoặc bổ sung, trau dồi các kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm, giá trị, nhận thức hoặc sở thích và có thể liên quan đến việc tổng hợp các loại thông tin khác nhau (Nguyễn Thị Bích Thuỷ, 2004). Như vậy, từ định nghĩa về hứng thú và học tập ở trên, hứng thú học tập có thể hiểu là thái độ của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự lôi cuốn về tình cảm, ý nghĩa thiết thực trong quá trình nhận thức. Hứng thú học tập bao gồm hai yếu tố sau: yếu tố nhận thức: là thái độ nhận thức của cá nhân đối với nội dung môn học ở một mức độ nào đó. Cá nhân ý
  9. thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của kiến thức học tập, trong cuộc sống và đối với bản thân cá nhân, muốn hiểu biết về nó kĩ hơn, sâu sắc hơn; yếu tố cảm xúc: là thái độ cảm xúc tích cực, bền vững của cá nhân đối với nội dung, trí thức môn học. Như vậy, hứng thú học tập là sự kết hợp giữa nhận thức và cảm xúc tích cực và hành động nhằm chiếm lĩnh nội dung môn học. - Sự cần thiết của hứng thú với quá trình học tập. Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên là những “kỹ sư tâm hồn”, sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người (nhân cách). Nó không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A. Ward thì:“Người thầy trung bình chỉ biết nói. Người thầy giỏi biết giải thích. Người thầy xuất chúng biết minh họa. Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng” Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh, người học là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo Galileo Galilei). Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không bị ép buộc, Khi hứng thú học tập, người học sẽ: Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra. Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ ràng. Chủ động vận dụng kiến thức kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học. Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khăn Hứng thú còn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ thấp đến cao: Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn ,Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về một vấn đề , Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu. Tóm lại, khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi
  10. đua học tập sôi nổi, tích cực, say mê nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi “Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.” (Viện KHGD - “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.). Vì thế những người làm công tác giáo dục nói chung và người thầy dạy Văn nói riêng phải không ngừng tìm ra các biện pháp gây hứng thú chohọc sinh trong mọi hoạt động học tập và giáo dục, có như vậy mới phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học, hướng trọng tâm vào học sinh, tạo tính tự giác học tập, tự học, tự nghiên cứu trong học sinh, tăng cường khả năng vậndụng kiến thức vào đời sống . * Đọc - hiểu văn bản văn học. Văn bản văn học là văn bản nghệ thuật được sáng tạo bằng ngôn từ. Ngoài những đặc điểm chung của văn bản, văn bản văn học có đặc điểm riêng. Ngôn từ của VBVH được lựa chọn, tổ chức ổn định, chặt chẽ, không thể thay đổi, ngôn từ mang tính đa nghĩa, giàu sức gợi. Hình tượng trong VBVH được tạo nên bởi nghĩa của câu, của từ, của đoạn và là sản phẩm của trí tưởng tượng, không bị giới hạn bởi không thời gian và các hiện tượng của thực tại bên ngoài. VBVH thể hiện cá tính sáng tạo của người viết ở cách nhìn, cách cảm, cách diễn đạt hiện thực đời sống. Đọc hiểu là thang độ cao của việc đọc văn bản. Đọc hiểu chính là tìm ra ý nghĩa của một thông điệp được tổ chức bằng một hệ thống kí hiệu. Trong dạy học ngữ văn, đọc hiểu VBVH thực chất là tiếp nhận, giải mã văn học nhìn từ phương diện quan tâm đến vai trò người tiếp nhận để tạo nên hiệu quả tiếp nhận . Trong giờ Đọc- hiểu văn bản văn học ở trường THPT, đối tượng tiếp nhận chính là học sinh. b. Một số giải pháp tạo hứng thú trong giờ Đọc hiểu văn bản văn học. Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn, lấy học sinh làm trung tâm, giờ Đọc- hiểu văn bản văn học phải hướng đến mục tiêu làm cho học sinh hứng thú, chủ động tích cực trong việc nhận thức, chiếm lĩnh nội dung tư tưởng
  11. và đặc sắc nghệ thuật của Văn bản văn học thông qua vai trò hướng đạo của giáo viên. Có nhiều giải pháp để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ Đọc hiểu Văn bản văn học như: đàm thoại, nêu vấn đề, đọc diễn cảm, đọc phân vai, kể chuyện, đóng vai để giải quyết một tình huống, diễn kịch, phiếu học tập, nhật ký đọc sách, tổ chức thảo luận nhóm, chuyển thể tác phẩm văn học, vẽ tranh, làm phim, trải nghiệm tình huống Do dung lượng và thời gian của báo cáo này, tôi xin được trình bày một số giải pháp tạo hứng thú cụ thể đã áp dụng trong những giờ dạy Đọc hiểu Văn bản văn học tại các lớp được nhà trường phân công giảng dạy. * Giải pháp 1: Tạo tâm thế để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh: Để một giờ Đọc hiểu văn bản đạt kết quả cao thì học sinh không chỉ dùng lí trí để “nhận” mà còn phải “cảm” bằng trái tim, tâm hồn. Bởi vậy, có thể nói dạy học tích cực chỉ thực sự diễn ra khi học sinh có được cảm giác thoải mái, được quan tâm, cảm thấy an toàn, được tôn trọng, được thể hiện bản thân. Các biện pháp tạo tâm thế cho học sinh để học sinh hứng thú, phát huy tính tích cực, chủ động trong giờ học. Một là, giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm huyết của mình, phải để người học cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài giảng. Như đồng chí Lê Duẩn từng nói: “Thầy giáo không chỉ dạy cho học trò bằng những công thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng tất cả tâm hồn mình”. Hai là, giáo viên cần chú ý đến từng học sinh với tư cách là những cá nhân độc lập để giúp các em vừa tuân thủ quy định giờ học vừa giữ được bản sắc của mình. Ba là, giáo viên cần hiểu, khuyến khích những mặt tích cực đồng thời động viên, điều chỉnh những nhược điểm từ đó giúp học sinh tiến bộ. Tâm thế thoải mái, hứng thú ở học sinh còn đến từ những nụ cười, những câu đùa hài hước, sự quan tâm, chia sẻ, lắng nghe và cả sự bao dung độ lượng của giáo viên.
  12. Bên cạnh đó, để học sinh có tâm thế tốt, giáo viên cũng cần giúp các em nhận thức được mục tiêu, lợi ích của môn học, bài học thông qua việc trao đổi thẳng thắn, cởi mở về cảm nhận môn học: Các em có nghĩ rằng học văn rất khó không?, học văn có phải chỉ để lấy điểm số, để thi vào trường tốt hay nó còn được vận dụng trong cuộc sống hằng ngày?. Từ việc lắng nghe những sẻ chia ấy, giáo viên còn xây dựng những định hướng phù hợp với từng lớp, từng học sinh. Như vậy, tạo tâm thế là yếu tố tiên quyết trong dạy học tích cực, tăng thêm sức hấp dẫn cho môn học. * Giải pháp 2: Đa dạng hoá hoạt động theo hướng dạy học tích cực Một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng của dạy học tích cực là sự tham gia chủ động, sáng tạo, tích cực của học sinh. Điều đó có nghĩa là những hoạt động học tập được thiết kế hướng đến khuyến khích niềm vui thích học tập, khuyến khích năng lực cá nhân, khuyến khích sự tương tác giữa người học với nhau trong việc giải quyết những nhiệm vụ cụ thể. Bởi vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên phải luôn vận dụng nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học, tạo nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học , từ đó sẽ làm cho học sinh cảm thấy thoải mái, hứng thú , không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự nhàm chán, mệt mỏi vì sự đơn điệu tẻ nhạt. - Tổ chức hoạt động nhóm: Tổ chức học sinh làm việc nhóm( hay hợp tác) để hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Đây là một trong những phương pháp dạy học tích cực, góp phần thúc đẩy nhu cầu tự đọc, tự học của học sinh; đồng thời rèn kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp cho các em. Dạy học theo nhóm là cách thức học sinh của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ (tùy mục đích sư phạm và yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định, được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học), cả nhóm cùng hợp tác dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng để hoàn thành công việc được giao. Vai trò nhóm trưởng trong mỗi nhóm được luân phiên thay đổi. Trong khoảng
  13. thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Khi dạy Đọc- hiểu Văn bản văn học, tôi kết hợp linh hoạt các hoạt động nhóm nhưng thường cho làm nhóm 2 thảo luận theo bàn hoặc nhóm 4 - tức là mỗi nhóm gồm 2 bàn, tránh di chuyển để tiết kiệm thời gian. Ngoài ra, trong một số hoạt động, tôi tổ chức nhóm lớn hơn (khoảng 8-10 học sinh) để thi với nhau tức là chia lớp thành 4 nhóm. + Hoạt động nhóm hình thành kiến thức mới: Ngay trong phần hình thành kiến thức, giáo viên có thể đặt ra các “tình huống có vấn đề” để học sinh thông qua tương tác nhóm mà giải quyết các tình huống ấy. Có khi tất cả các nhóm trong lớp cùng thực hiện một nhiệm vụ nhưng có khi mỗi nhóm lại có nhiệm vụ riêng, là các phần trong một chủ đề chung. Ví dụ khi dạy bài “Chí Phèo” – sách Ngữ văn 11, tập I, thay vì hỏi và thuyết giảng phần cuối truyện như trước, tôi chia nhóm 2 theo bàn và đặt ra tình huống có vấn đề:–Theo em tại sao Chí lại đến nhà Bá Kiến và giết hắn mà không đến nhà thị Nở như dự định ban đầu?. Sự thay đổi này chứng tỏ điều gì đang diễn ra trong tâm hồn Chí?. Học sinh thảo luận giải quyết vấn đề, từng bước chiếm lĩnh kiến thức, không những tạo nên sự hưng phấn mà động lực thúc đẩy khả năng tự học, hiểu và sáng tạo, giải quyết các vấn đề. Hết thời gian thảo luận, giáo viên gọi thành viên bất kì trả lời. Sau phần trình bày của các nhóm, giáo viên mời các nhóm khác nhận xét rồi nhận xét bổ sung, phân tích kĩ và cho học sinh rút ra khái niệm. Khi dạy bài “Hai đứa trẻ”, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bức tranh phố huyện lúc chiều muộn tôi lại chia lớp làm 4 nhóm và phân công nhiệm vụ khác nhau, yêu cầu thảo luận nhóm (5') theo hình thức bốc thăm. Nhóm 1, 2: Tìm chi tiết miêu tả bóng tối và ánh sáng trong đoạn văn. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả và ý nghĩa biểu tượng của những chi tiết đó.
  14. Nhóm 3,4 : Tìm chi tiết miêu tả cuộc sống của con người trong đoạn văn. Nhận xét về cuộc sống của họ và nghệ thuật miêu tả nhân vật. Tôi để thời gian cho học sinh tranh luận, sau đó nhận xét, có thể đưa thêm một số câu hỏi phụ để chốt và nâng cao kiến thức + Hoạt động nhóm ôn tập kiến thức cũ; luyện tập, củng cố kiến thức vừa học Nhằm giúp các em ôn tập kiến thức bài cũ nhưng không muốn gọi từng học sinh lên kiểm tra bài cũ, tôi mời cả lớp đứng lên, yêu cầu hàng 1 và hàng 3 quay mặt xuống. Như vậy lớp học lúc này sẽ gồm sáu hàng, tạo thành hai cặp hàng đối mặt nhau. Tôi cho học sinh đứng đối diện cùng vị trí ôn tập (người này nói – người kia nghe, người kia nói – người này nghe). Sau vài phút, tôi lại yêu cầu các em chuyển vị trí (bước sang trái hoặc phải 2 bước). Thế là lúc này, học sinh đã có một đối tác ôn tập khác. Nhờ đó, khả năng trình bày cũng như ghi nhớ của các em được rèn luyện. Việc ôn bài không trở thành gánh nặng mà được thực hiện với tâm thế hồ hởi, vui vẻ. Để tổ chức được hoạt động này, giáo viên cần hướng dẫn thật kĩ trước khi yêu cầu học sinh đứng lên thực hiện. + Ngoài ra, hoạt động nhóm còn được sử dụng trong các trò chơi: Tôi sẽ trình bày kĩ nội dung này trong hoạt động “tổ chức trò chơi”. Như vậy, hoạt động nhóm được sử dụng trong các giờ Đọc- hiểu Văn bản văn học sẽ giúp cho mọi học sinh được tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập; tạo cơ hội cho các em được nêu quan điểm của mình, được nghe quan điểm của bạn, được trao đổi, bàn luận về các ý kiến khác nhau và đưa ra lời giải tối ưu cho nhiệm vụ được giao. Các thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới và học hỏi lẫn nhau, vì thế kiến thức sẽ trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm, được tham gia trao đổi, trình bày vấn đề nêu ra. Học sinh hào hứng khi có sự đóng góp của mình vào thành công chung của cả lớp. Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh (đặc biệt là những em nhút nhát) trở nên bạo
  15. dạn hơn, dễ hòa nhập vào cộng đồng nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt. - Sử dụng hình ảnh, video trong quá trình dạy học Lồng ghép những đoạn phim, những tranh ảnh, những khúc ngâm, bài thơ được phổ nhạc vào quá trình giảng dạy. Điều này không những tạo không khí hứng thú học tập, mà đó là một kênh thông tin hữu hình, trực quan để học sinh nhận biết, hiểu bài sâu sắc. Theo triết học Mác – Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý”. Như vậy, trực quan chính là một “kênh” giúp học sinh tiếp cận và lĩnh hội kiến thức. Ý thức được điều đó, tôi đã sử dụng phương pháp trực quan cho các giờ Đọc- hiểu Văn bản văn học của mình. Chẳng hạn khi dạy bài Câu cá mùa thu( Thu điếu) của Nguyễn Khuyến , trước khi vào bài giáo viên cho học sinh nghe đoạn nhạc bài hát “Nhớ mùa thu Hà Nội” kết hợp trình chiếu một số hình ảnh về mùa thu. Từ đó giáo viên hỏi cảm nhận của của học sinh về mùa thu và bắt dẫn vào bài với một lời giới thiệu thật hay. Học sinh được khơi gợi cảm hứng thẩm mĩ sẽ tìm hiểu bài thật hào hứng. Trong quá trình giảng dạy giáo viên cũng có thể sử dụng thêm những hình ảnh minh họa: Dạy bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam giáo viên có thể trình chiếu một số hình ảnh về tác giả Thạch Lam, hình ảnh 2 đứa trẻ, phố huyện Cẩm Giàng xưa, hình ảnh chiều muộn, bóng tối và ánh sáng, hình ảnh đoàn tàu .
  16. Khởi động tiết dạy Chí Phèo, Giáo viên có thể cho học sinh nghe bài hát “Chí Phèo” của Bùi Công Nam. GV có thể đặt các câu hỏi như sau: (1). Nhân vật văn học nào được nhắc đến trong bài hát? Đáp án: Nhân vật Chí Phèo.(2). Liệt kê những đặc điểm của nhân vật được nói đến trong bài hát? Đáp án: Nghèo, say rượu, mong có người yêu(3). Cũng giống như nhân vật văn học, “anh” trong bài hát mong muốn điều gì nhất? Đáp án: Mong làm người tốt Từ niềm mong ước đó của nhân vật trữ tình giáo viên dẫn dắt vào bài mới. Trong quá trình dạy bài mới, giáo viên lồng ghép cho học sinh xem một vài đoạn phim nhỏ nói về hình ảnh Chí Phèo cùng với tiếng chửi, hình ảnh của thị Nở cùng với bát cháo hành, hình ảnh chí Phèo hiền lành sau khi ăn cháo hành Nó tác động trực tiếp đến nhiều giác quan của các em, tạo ấn tượng, kích thích sự tò mò, hấp dẫn và lôi cuốn, từ đó sẽ gây hứng thú hơn trong việc tìm hiểu tác phẩm, tìm hiểu về số phận của nhân vật. Nhờ việc sử dụng tranh ảnh, video , những giờ Đọc- hiểu văn bản văn học sinh động hẳn, học sinh hoạt động tích cực hơn, đem lại những hiệu quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên cần chú ý không nên quá lạm dụng CNTT trình chiếu mà không khai thác hết, biến giờ dạy thành giờ triển lãm ảnh, không phát huy được óc quan sát, tưởng tượng, sự cảm thụ ngôn từ của học sinh hoặc giáo viên lựa chọn hình ảnh, âm thanh minh họa không phù hợp, dẫn đến học sinh chỉ ấn tượng những gì được xem, nghe mà quên mất điều quan trọng hơn là phải tập trung cảm thụ khai thác tác phẩm văn học qua hệ thống ngôn từ. - Sử dụng sơ đồ tư duy:
  17. SĐTD là một công cụ năng động, hấp dẫn giúp phát tạo sự hứng thú, phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi học sinh. Trong dạy Đọc- hiểu Văn bản văn học, tôi đã linh hoạt sử dụng hình thức này trong nhiều bài, ở nhiều thời điểm khác nhau trong tiến trình: + Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc kiểm tra bài cũ. Với cách kiểm tra bài cũ truyền thống, thường giáo viên sẽ gọi học sinh lên bảng, hỏi những câu hỏi liên quan đến bài học trước. Học sinh học thuộc bài , trả lời và giáo viên cho điểm. Dùng SĐTD, giáo viên có thể kiểm tra học sinh bằng cách gọi học sinh lên bảng vẽ SĐTD bài trước. Giáo viên cũng có thể kiểm tra bài cũ cả tập thể lớp bằng cách yêu cầu mỗi em tự vẽ SĐTD khái quát nội dung bài học trước hoặc một phần bài học trước. Cách kiểm tra bài cũ theo SĐTD sẽ giúp các em không học máy móc, thuộc bài như một con “ vẹt”. Hình thức này giúp học sinh phát huy tư duy logic, sáng tạo cho bản thân. Ví dụ: Trước khi dạy văn bản “Chí Phèo”,giáo viên kiểm tra bài cũ bằng cách cho học sinh vẽ SĐTD để hệ thống kiến thức đã học ở tiết học trước thông qua câu hỏi: em hãy lập SĐTD về tác giả Nam Cao, sau đó ghi cụm từ khóa lên bảng “Tác giả Nam Cao”, rồi gọi một em xung phong lên bảng vẽ. Học sinh dễ dàng thực hiện theo yêu cầu, Khi học sinh vẽ xong, giáo viên cho cả lớp quan sát, gọi một vài em nhận xét rồi giáo viên nhận xét và cho điểm. Đây là nội dung bài học của tiết học trước, rất thiết thực để học sinh tiếp nhận một truyện ngắn tiêu biểu nhất của ông – truyện “Chí Phèo”. + Sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy bài mới: Việc sử dụng SĐTD trong dạy bài mới ít được giáo viên áp dụng . Nhưng qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy, việc kết hợp sơ đồ tư duy trong quá trình ghi bảng trong dạy bài mới là vô cùng thuận lợi. Nó tạo nên một “gia vị” mới, tăng sức hấp dẫn của bài học, tạo hứng thú, khơi gợi trí tưởng tượng, sáng tạo của học sinh. Trong giảng dạy văn bản văn học, tôi đã linh hoạt sử dụng hình thức này trong nhiều bài, ở nhiều thời điểm khác nhau trong tiến trình dạy bài mới
  18. Giáo viên dạy và vẽ hoàn chỉnh sơ đồ tư duy: Khi dạy bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến giáo viên vẽ sơ đồ tư duy hình thành đơn vị kiến thức tổng kết nội dung và nghệ thuật của bài học. Điều này khiến học sinh cảm thấy hào hứng, nhất là những bạn ngại ghi chép mà lại thích vẽ vời, sáng tạo. Giáo viên vẽ một phần, học sinh hoàn thiện: Đôi khi, giáo viên chỉ cần vẽ phác các nhánh của sơ đồ, rồi mời học sinh lên bảng điền tiếp nội dung mà không mang sách theo. Để làm được như thế, giáo viên đã cho học sinh tự nghiên cứu tài liệu, nắm kiến thức trong 5 phút. Cách này giúp khuyến khích khả năng tập trung và ghi nhớ nhanh của học sinh. + Sử dụng sơ đồ tư duy trong hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài học: Sau mỗi bài, yêu cầu quan trọng để khắc sâu kiến thức cho học sinh là tổng hợp nội dung bài học. Lúc này, sơ đồ tư duy chính là một công cụ đắc lực. Sử dụng sơ đồ tư duy khái quát bài học phát huy được ở học sinh: khả năng khi nhớ, khả năng tổng hợp, khả năng hệ thống hóa kiến thức, khả năng sáng tạo. Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ SĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Đây là một số sản phẩm của học sinh: Thực ra, sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy và học không phải là một phương pháp dạy học mới nhưng tính mới của giải pháp mà tôi áp dụng là sơ đồ tư duy mà tôi hướng dẫn học sinh sử dụng là dạng sơ đồ nhánh đơn giản, cụ thể, thiết thực, không quá phức tạp, màu mè như nhiều sơ đồ tư duy thường thấy trên mạng Internet hoặc các tài liệu, sách tham khảo trước kia. Không chỉ áp dụng